Đăng bởi: SAO HỒNG | 05.02.2014

MÙA XUÂN VÀ NỔI NHỚ ĐỒNG ĐỘI XƯA

(Để tưởng nhớ đồng đội đã hi sinh ở chiến trường K)

Một năm mới lại đến. Mùa Xuân đã về rồi. Khi mỗi một mùa xuân sang, tôi lại nôn nao nhớ về những cái Tết năm xưa ở chiến trường K. Nhớ những đồng đội đã vĩnh viễn không còn được đón xuân ở quê nhà. Những thân xác  đồng đội còn thất lạc nơi rừng khộp rừng le và những đầm lầy mênh mông nước mùa mưa và trơ gốc lác thân năn mùa khô,.. với linh hồn lang thang mỗi chiều hoàng hôn xứ chùa tháp.

Nơi đó, trong mười năm (1979-1989), biết bao người lính Việt Nam đã ngã xuống. Họ hy sinh vì chính quyền Việt Nam không chấp nhận một trong những chế độ diệt chủng tàn bạo nhất của thế kỷ 20. Chế độ đó được hoài thai từ đảng cộng sản Căm-pu-chia thập niên 1950s – 1960s và bị tiếm đoạt quyền điều hành bỡi một nhóm theo chủ nghĩa Maoist có nguồn gốc từ nhóm du học sinh ở Pháp.

Chính quyền Khmer Đỏ, khi đã chiếm được thủ đô Phnompenh với sự hỗ trợ của cố vấn quan sự Trung Quốc đã bắt đầu chính sách thanh lọc xua đuổi cộng đồng người Khmer gốc Việt, những viên chức và gia đình chính quyền Lonnon, người ngoại quốc có nguồn gốc phương Tây; thanh trừng những người Khmer kháng chiến thân Việt và diệt chủng cả dân tộc mình.

Bao máu xương, nước mắt, mồ hôi của người lính Việt Nam đã đổ xuống để xoá bỏ một chế độ diệt chủng tàn bạo đó

***

Nơi đơn vị mình đóng quân thuộc Đông Bắc nước bạn. Đó là vùng lưu hành sốt rét nặng nhất theo bản đồ dịch tể của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO). Thủ phủ vùng Đông Bắc là S’tưng-t’reng. Một thị xã nhỏ nằm cạnh ngã ba sông. Những dòng sông Sê-san, Sê-kông, bắt nguồn từ Tây Nguyên Việt Nam, chảy về hướng Tây hòa nhập vào sông Mẹ (Mê-kông, Mè-khỏng).

Một thị xã giữa miền rừng bao la bạt ngàn cây cối, được ví như “vầng trăng trôi giữa rừng thốt nốt”. Nơi đó, từ bao đời nay những người dân mang các sắc tộc Khmer, Lào, Thái, Hoa, Việt chung sống hiền hòa và đoàn kết bên nhau. Dù họ có nguồn gốc, sắc tộc từ những miền quê khác nhau nhưng họ cùng uống nước một dòng Mê-kông.

Thế mà hơn ba năm tồn tại, chế độ diệt chủng Khmer Đỏ, được Trung Quốc hậu thuẫn, đã phá tan cuộc sống yên bình đó. Thị xã hoang tàn sau nạn diệt chủng. Dấu ấn của sự chết chóc vương vãi khắp nơi. Những đầm lầy đầy thây xương người thối rữa, Những hố chôn tập thể với những sọ người còn nguyên vết nứt, thủng. Sự chia lìa tứ tán của các sắc tộc cộng đồng cư dân.

Sau thời kỳ diệt chủng khủng khiếp, những người dân còn sót lại và ly hương đã quay về xây dựng cuộc sống mới dưới sự chở che và giúp đỡ của những người lính Việt Nam. Mặc cho đài báo nước ngoài và phương Tây hồi đó ra rả suốt ngày bịa đặt và vu cáo, những người lính Việt Nam ngày đêm vẫn đồng cam cộng khổ giúp dân xây dựng, tổ chức lại cuộc sống.

Đơn vị mình, bệnh viện Quân y 21 (B21, MT579) một bệnh viện tiền phương quân khu, có nhiệm vụ thu dung điều trị cả vùng Đông Bắc Căm-pu-chia và Nam Lào. Bệnh nhân là lính Việt, lính Cămpuchia và người dân địa phương. Không phân biệt sắc dân, tôn giáo, họ đều được điều trị và phục vụ hoàn toàn miễn phí như nhau.

Người dân Khmer, Hoa, Lào, Việt đều rất quý trọng bộ đội Việt Nam. “Coong-tốp Việt Nam lơ-o-ná” (Bộ đội Việt nam tốt lắm!) là câu nói mình thường nghe mỗi khi đi đến đâu, tiếp xúc với bất cứ sắc dân nào ở đó.  

Khoa Truyền nhiễm – Da liễu của mình có bà mẹ nuôi gốc Hoa bị lính Khmer đỏ cắt gót chân Achille, coi bọn mình như con. Có anh chị nuôi Khăm-muội, người Lào coi cả khoa như người thân. Có những gia đình ngư dân gốc Hồng Ngự, Đồng Tháp mừng rỡ khi mình đến thăm bệnh cho con cái họ. Mỗi khi nhà có giỗ chạp, đám cưới hỏi, họ đều trân trọng mời bọn mình đến dự. Mỗi dịp Tết Nguyên đán hay Tết năm mới (Chuôn – Chơ – Năm – Thơ – Mây), bộ đội và dân là khách quý của nhau. Vui bên nhau với tiếng trống bập bùng lửa trại thâu đêm. Chúc cho nhau cuộc sống hòa bình an lành mãi mãi.

Mình có những đứa trẻ người Khmer, người Lào, người Việt nhận làm cha đỡ đầu vì đã cứu chúng thoát khỏi tử thần từ những ca sốt rét ác tính, những ca tiêu chảy cấp. Dù đêm khuya hay mưa gió, bệnh viện mới khôi phục của bạn gọi yêu cầu là anh em lên đường chi viện và hỗ trợ cấp cứu, điều trị. Mình cũng đã từng nhiều lần cứu sống những người lính Khmer mà khi họ trốn ra viện, mới biết là quân của Polpot. Cũng chẳng sao, mình thường tâm niệm, họ là con bệnh. Cứu người thì không phân biệt chính kiến, phe phái. Có thể vì thế mà họ sẽ thức tỉnh và rời bỏ hàng ngũ Pôn-pốt để trở về làm người dân lương thiện.

Mình còn nhớ như in, nhiều đồng bào ở thị xã Stưng-teng nắm tay chia sẻ sự hốt hoảng và lo lắng khi nghe Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch tuyên bố với đài BBC là Việt nam sẽ rút quân về nước vào năm 1990. Họ sợ Pôn-pốt trở lại. Họ sợ chính quyền mới không giữ được cuộc sống bình yên vừa có được.

Mười năm sau, trước khi Việt Nam rút quân năm 1989, Căm-pu-chia đã hồi sinh. Cuộc sống đã khôi phục trở lại màu xanh của cây cối. Chùa chiền, trường học, bệnh viện, chợ búa đã được khôi phục và xây dựng lại. Những cánh rừng cao su xanh mướt trải dài không còn tiếng thét la của người dân vô tội. Những đêm hội dập dìu điệu múa lăm vông của những đôi trai gái. Cuộc sống lại đâm chồi nãy lộc như cấy cối sau mùa nắng hạn. Mùa xuân đã về trên đất nước Chùa Tháp. Đó cũng là giai đoạn khó khăn nhất của Việt Nam. Mỹ và phương Tây cấm vận kinh tế, vì đã coi Việt Nam xâm lược. Trung Quốc thì duy trì tình trạng chiến tranh ở biên giới phía Bắc. 

Bây giờ, sau ba mươi lăm năm nhìn lại, mới thấy trong đục trắng đen. Nhưng nhìn lại những máu xương bao thế hệ người lính Việt đã đổ xuống, mình vẫn băn khoăn liệu có hoài phí?

***

Những năm 1979s -1989s, cuộc sống người dân Việt Nam vô cùng khó khăn nhọc nhằn. Nhưng vẫn là một cuộc sống hòa bình không có tiếng bom rơi đạn nổ. Trong tâm tư rất nhiều người, cuộc sống đan xen giữa thời bình thời chiến; giữa hai dòng tư tưởng hưởng thụ và cống hiến; giữa những hi sinh mất mát và bon chen tinh toán được thua ở đời. Với đa số người lính Việt, khi đã bước chân sang biên giới K là chỉ biết đang sống ở chiến trường. Cuộc sống người lính nay còn mai mất. Lương không đủ tiêu. Nhu yếu phẩm dùng chung. Cùng chia sẻ ca nước mát mùa khô và chuyền tay nhau điếu thuốc mùa mưa.

Nhìn những đồng đội với tấm thân gầy xanh xao vàng bủng hay khấp khểnh trên chiếc nạng gỗ, những bệnh binh run lên từng cơn sốt rét rừng, sốt đái ra huyết; và biết ngày mai đến lượt mình,.. thì ai nỡ so đo tính toán thiệt hơn.

Mình đã nhiều lần khóc thầm và thao thức trắng đêm mỗi khi không cứu được đồng đội là bệnh nhân của mình. Họ đến bệnh viện khi đã quá muộn. Đó là những ca đã suy thận hay mất máu nhiều vì đường xa, vì mưa liên miên tắc nghẽn giao thông, vì thiếu thuốc cần thiết; không cách gì cứu sống được nữa. Mình khóc vì lực bất tòng tâm. Khóc vì những cái chết trẻ của đồng đội. Đa số họ đều ở độ tuổi hai mươi và chưa được yêu lần nào.  

*****

Nỗi nhớ Mùa Xuân còn là nỗi nhớ về mùa khô nơi nước bạn. Nhớ những cơn khát cháy họng khi đi qua những cánh rừng khộp, rừng săng lẽ bạt ngàn trơ trọi cành cây và lốp xốp lá khô. Nhớ những mùa chiến dịch giành lại các cao điểm trọng yếu, thương đồng đội bị thương, bị sốt rét hàng loạt đổ về nằm chật kín phòng bệnh.

Nhớ những cơn mưa triền miên mút mùa làm nôn nao người lính; nhớ những tháng mùa khô cháy bỏng đất đá khô trắng rừng cây cỏ và thèm những cọng rau xanh…

…. và văng vẳng còn đâu đây lời ca mỗi dịp xuân về :

Con biết bây giờ mẹ chờ em trông…

Bao lứa trai làng chào xuân chiến trường

Không lẽ riêng mình êm ấm…

……  (Xuân này con không về)

Đồng đội ơi, những ai còn nằm bên đó mà chưa được đưa về với đất mẹ? Xin cho tôi gửi về miền xa ấy chút tình của người đồng đội cũ của các anh năm xưa ! Xin cho vong hồn các anh được siêu thoát !

Bạn bè ơi, những ai còn nhớ đến một thời gian khổ mà thấm đẫm tình người, tình đồng đội ? Xin hãy đừng làm gì hổ thẹn với vong linh đồng đội mình còn lang thang nơi đất khách quê người !

Sao Hồng

Khu vực đền Preah Vihear nhìn từ Thailand, nơi đây để giành lại đền từ tay Polpot, bộ đội Sư đoàn 2 QK5 đã thương vong rất nhiều trong chiến dịch mùa khô 1984-1985. Trong đó có đại tá Lê Hồng Anh, sư trưởng bị mìn tăng làm bỏng độ II, III toàn bộ lưng, khi mất mới 38 tuổi.

Trả lời

  1. Hầu hết những người đã tham gia cách mạng đều do bị tuyên truyền, nhiều người vì xu thế xã hội, có người bị bắt buộc, có người cơ hội mong ăn trên ngồi chốc, kiếm chác vơ vét….
    Nhưng không phải ai cũng ngộ ra rằng, ta đã bị phản bội, lừa bịp bởi HCM và các học trò của ông, ta đã ngu xuẩn và dốt nát (có thể do điều kiện không được tiếp cận thông tin đa chiều, nghiên cứu độc lập…) mà tin vào CNCS không tưởng và khát máu.
    Sao Hồng có đồng ý không?

    • Đồng ý!
      Nhất là về khía cạnh bưng bít thông tin. Chỉ có thông tin một chiều. Nó giống như bộ máy tuyên truyền của chế độ Đức Quốc Xã (cũng có tên cnxh). Người dân cả một nửa thế kỷ )bao nhiêu thế hệ?) chỉ biết một chiều thông tin. Vì thế, những ai có điều kiện đi ra thế giới đều có thể trăn trở, suy tư về điều đó!
      Bây giờ vẫn còn lối tuyên truyền như thế, không chỉ ở BTT !

  2. Bạn Sao Hồng ơi, Sư trưởng họ Trương chứ không phải họ Lê nhé!

    • A, đúng rồi!
      Chào bác Phạm Nguyên… Dân !
      Bác đã hết quan hoàn Dân và vẫn còn NGUYÊN DÂN chứ?
      He he…

  3. Sao Hồng ơi! tôi chia sẻ với ông, tôi là lính đàn anh, lính chống Mẽo. Chúng ta (ông, tôi, và đặc biệt là LIỆT SỸ) BỊ MẤT QUÁ NHIỀU. bây giờ mới thấy mất hết ông ạ. KHÔNG CÓ GÌ QUÝ HƠN ĐỘC LẬP, TỰ DO? thật mơ hồ và ảo tưởng. Chiến đấu cho lý tưởng ấy để bây giờ mới thấy mình NGU.

    • Chào bác Hồ Quốc Thái,
      Thế hệ cha anh, từ lứa tuổi bác trở về trước đã hy sinh nhiều thứ để “giành độc lập cho dân tộc”. Nếu xét theo thời điểm lịch sử thì giai đoạn/thời kỳ đó vẫn “không mơ hồ” bác ạ.
      “Độc lập” gắn liền với quyền Bình đẳng – Bác ái cho mọi người dân theo nghĩa thoát khỏi sự áp đặt cai trị của nước ngoài và lệ thuộc chính sách của họ thì vẫn hợp xu thế thế kỷ 20.
      Nhưng “độc lập gắn liền với chủ nghĩa xã hội” hay “định hướng chủ nghĩa xã hội” như bây giờ, thì lại khác. Nó giống như một “chủ nghĩa thực dân mới” mang hình hài và áo khoác mới. Vì “lý tưởng chung chung” mà mất đi các quyền cơ bản của dân tộc thì chỉ là “độc lập” hình thức mà thôi.
      Còn Tự do theo đúng nghĩa thì còn quá nhiều vấn đề thực tế để bàn luận,..
      Năm Giáp Ngọ, chúc bác luôn Bình an và đủ sức khoẻ !

      • Cảm ơn Sao Hồng!

  4. LHA chết vào cuối mùa khô 83-84, trận đó chỉ có E 1 của F2 đi. Mùa khô 84-85 cả F2 mới tham gia đầy đủ. Qua trận này tui thấy đám chỉ huy E 2 NGU hơn chỉ huy E 3 nhiều!!! ( Nếu siêng thì riêng cái NGU này có thể viết thành sách được).
    Bài “tỉnh lẻ đêm buồn” có 1 câu: “Em ơi, S’tung cheng tỉnh lẻ đêm buồn” là phe ta hay hát nhất.
    Theo dỏi trực tiếp UPR, thấy phái đoàn VN trả lời chát vấn giống y như đợt bộ đội VN làm lễ “rút quân” ở S’tung Cheng mùa 84-85. Cấp trên soạn sẵn 10 câu hỏi và 10 câu trả lời, bắt lính học cả tuần cho thuộc để khi ra làm lễ, nếu có PV nước ngoài nào hỏi thì trả lời y như sách! Nếu hỏi không đúng giáo án thì chọn câu nào phù hợp nhất để trả lời. Thời đó, bộ đội còn ảnh hưởng “tàn dư Mỹ-ngụy” nên học thuộc rồi trả lời PV chứ không như các đ/c TW của ta cầm giấy đọc câu trả lời trước cả hội đồng LHQ .
    Công nhận TW ta ngày càng giỏi. hàng trăm câu chất vấn ứng khẩu tại chỗ mà các đ/c ta cầm giấy soạn sẳn ở nhà trả lời 1 lần là xong.
    *Nếu bác có cơ hội gặp Lê Chiêm (có Ê!) QK5 thì cho tui gởi lời thăm( nói là của thằng bạn “cùng mâm 6” ở E 2)

    • Chào Thập Tứ Đại Ngu,
      Hoá ra bác cũng là lính cựu của 579.
      LHA mất tại BV 21, sau 5 ngày bị nạn (mìn tăng nổ khi xe GMC chở đại tá đi thị sát chiến trường sau trận đánh (đã chiếm lại được Đền PVH). Ghế mà LHA ngồi phía thùng xăng, nên toàn bộ lưng bị bỏng nặng), MI8 của không quân mới đáp và đưa về được.
      Tôi nhớ là chiến dịch (CD) mùa khô 1984-1985, khi đó Đoàn Khuê đã lên làm Tham mưu trưởng Mặt trận K.
      CDMK 83-84, do ĐK làm tư lệnh chiến dịch giành lại quyền kiểm soát Đền Preadvihea bị thất bại do lính VN thiếu nước và chết rất nhiều,…

      • Trận đại tá A. trúng mìn, E 1 (trung đoàn Ba Gia) cũng bị “lột da” chỉ còn 2 da!
        Đến MK 84-85, tui bị trúng… sốt rét. Xong chiến dịch là về luôn, gia tài chỉ còn lọ thuốc kí ninh làm bùa hộ mạng.
        bác ở B21 MK 84-85 có biết vụ t/úy Phạm Hồng Hối (E 2) lau súng, cướp cò làm chết C phó cùng đ/v không? Đi qua hết mùa chiến dịch không rụng 1 cọng lông chân, về tới Stung cheng chờ làm lễ rút quân lại chết lãng xẹt!
        Cái dây xích Lê Đức Anh-ĐK-Nguyễn Huy Chương- Nguyễn Chơn, cứ người này bước lên 1 bước là người sau lấp vào chổ trống, đến hồi DK chết mới bị đứt.
        *Nếu bác có tham gia hội CCB ở NT thì tui nhờ tìm giùm tông tích mấy thằng lính trinh sát cũ của tui. (“tám” cho vui thôi, không dám nhờ vả gì chúng nó đâu).

        • Chết “lãng xẹt” như C phó của E2 rất nhiều. Như vụ thằng Sự của C A72 là bệnh nhân khoa mình, đã có trong danh sách chuyển viện về C17, mà đêm trốn về đơn vị lấy AK sang B21 bắn chết 2 sĩ quan và làm bị thương 4 người khác ở khoa A2. Vụ này làm mình điêu đứng một thời gian vì khi đó đang phụ trách khoa A4!
          – Sốt rét về điều trị A4 (84-87) không?

          – Muốn tìm ai ở NT? Mình cũng tham gia hội CCB tư 1992. Nhưng sinh hoạt theo phường. Nếu tìm ai, mình nhờ bác Phó chủ tịch Hội CCB tỉnh KH tìm cho!

          • Cũng cở tiểu đội, nhưng chọn ra vài cái tên khó trùng cho dễ tìm: Lã Thành Hải, Nguyễn Văn Nguộc, Huỳnh Tô… trước đây là lính “đề-lô” do tui huấn luyện ở E 2.
            ĐT Trương Hồng Anh có người em là trung úy cũng ở F2, dựa hơi anh, hay uống rượu ra đường QL19 quậy phá, cảnh vệ không dám đụng tới.
            -Sốt kinh niên nhưng chỉ biết tới y tá C là hết! C trưởng sợ mất điểm thi đua nên “dìm” lính trong trại, không cho đi trạm xá E. hix


Bình luận về bài viết này

Chuyên mục